“Đồ chây lười!”
Ngày bé:
Abraham được sinh ra trong một căn nhà gỗ nhỏ tại Kentucky, một trong những bang dành cho nô lệ, vào năm 1809 và được đặt theo tên của ông nội.
Năm ông lên bảy, gia đình ông chuyển đến Indiana, vùng đất của sự tự do và chế độ nô lệ không được chấp nhận ở nơi này.
Tại đây, ông và chị gái Sally hàng ngày phải lội bộ hơn 14 cây số đường rừng để đến lớp, con đường có nhiều động vật hoang dã như gấu, hươu nai, gấu trúc Bắc Mỹ và cả mèo rừng sinh sống.
Cha ông cảm thấy con mình ngày ngày lặn lội hơn 14 cây số đến trường chỉ để ngồi cùng mấy đứa trẻ khác và học cả ngày thật phí thời gian, nhưng mẹ ông, Nancy, lại khuyến khích việc học của con. Bà dặn ông phải cố gắng học càng nhiều càng tốt.
Năm ông chín tuổi, mẹ Nancy qua đời. Cả gia đình ông nhuốm màu ảm đạm thê lương cho đến khi cha ông tái hôn với một người phụ nữ khác một năm sau đó. Abraham thỉnh thoảng nhắc đến mẹ kế Sarah như một người bạn tốt nhất mà ông từng có với tên gọi trìu mến “người mẹ thiên thần.”
Ông thường hỏi cha nhiều câu khiến người nổi đóa, và rất nhiều đêm ông thức trắng, nằm vắt tay lên trán nghĩ về những từ phức tạp đối với một đứa trẻ như “độc lập” và “định mệnh.”
Lớn thêm một chút, vẻ ngoài của ông không được ưa nhìn cho lắm, thậm chí một số người còn thẳng thừng chê ông xấu xí thô kệch. Trong mắt mọi người, ông cao lênh khênh, kỳ khôi dị hợm và “chẳng khác gì bộ xương di động.”
Ông đi đứng chậm chạp, khác người, hai vai thõng xuống và với chiều cao quá khổ, mỗi khi bước qua cửa, ông đều phải cúi đầu thấp xuống.
Khác hẳn bạn bè đồng trang lứa, ông chẳng ham chơi bài, uống rượu hay vác súng đi săn. Hồi 11 tuổi ông có bắn chết một con gà gô chạy rông trên đồng cỏ, và từ đó về sau ông không tham gia săn bắn gì nữa.
Bạn bè và một số họ hàng cho rằng ông “thuộc hàng lập dị” bởi cả ngày ông chỉ biết vùi đầu đọc sách, thậm chí từng đi bộ hơn 30 cây số chỉ để mượn một quyển sách mà ông muốn xem.
Mẹ kế Sarah lúc nào cũng khuyến khích niềm đam mê đọc sách và tinh thần hiếu học của ông, trong khi cha ông cho rằng việc mê chữ nghĩa, sách vở là biểu hiện của kẻ lười biếng.
Dù cha ông suốt ngày càm ràm chuyện đọc sách là “phí phạm thời giờ”, Abraham vẫn yêu sách hơn bất kỳ thứ gì khác trên đời. Ông đọc tất cả những quyển sách nào ông tìm được trong vòng bán kính 80 cây số quanh nhà.
Ông hay chia sẻ rằng mình tiếp thu kiến thức chậm, nhưng bộ não của ông như một miếng thép, “rất khó khắc chữ lên nó, nhưng một khi đã khắc thành công, chữ nghĩa chẳng thể nào bay mất.”
Người hàng xóm thuê ông làm việc than phiền, “thằng này cả ngày đọc sách và suy tư” và xem ông là “đồ lười chảy thây.”
Chưa bao giờ ông hòa hợp được với cha mình, nhưng ông lại dành tình thương yêu đặc biệt cho mẹ kế, bởi bà hiểu ông ham học đến nhường nào và luôn động viên ông đọc càng nhiều càng tốt.
Thật ra ông chẳng được đến lớp nhiều (tổng cộng chưa đầy một năm), nhưng ngọn lửa đam mê học hỏi trong ông thì không thể nào dập tắt được. Ông luôn nói rằng những gì ông muốn biết đều nằm trong sách, và người bạn tốt nhất của ông là “người trao cho tôi quyển sách tôi chưa được đọc bao giờ.”
Dù ông từng là nhà vô địch chạy đua, nhảy cao và đấu vật ở rất nhiều hạt, nhưng tình yêu to lớn nhất đời ông vẫn dành cho sách và việc học.
Khi trưởng thành:
Năm 19 tuổi, ông rời nhà đến Illinois để phụ việc trên một chiếc xà lan chở hàng xuôi theo dòng Mississippi đến New Orleans. Tại đây, ông chứng kiến một cuộc đấu giá nô lệ.
Cảnh những người da đen ở miền Nam bị đối xử không khác gì đồ vật đã ám ảnh ông mãi về sau. Ông thề sẽ đấu tranh chống lại chế độ nô lệ bằng mọi giá.
Năm 22 tuổi, ông trở về Illinois làm chân bán hàng cho một cửa tiệm, nhưng không may tiệm thua lỗ phải đóng cửa. Thế là ông thử mở cửa hàng riêng, nhưng cũng thất bại nốt. Phải mất mấy năm trời ông mới trả hết nợ nần từ thương vụ này.
Ngoài kinh nghiệm phụ việc trên tàu và trông cửa hàng, ông còn làm thợ chặt gỗ, giám đốc bưu điện, giám định viên, trưởng đội dân quân và tự học thêm ngành luật.
Đến năm 23 tuổi, ông tranh cử vào một vị trí thuộc cơ quan lập pháp bang Illinois nhưng thất bại. Hai năm sau ông tái tranh cử và lần này ông được ngồi vào chiếc ghế đó từ năm 1834 đến năm 1841.
Người đời thường nói, trong vai trò luật sư, ông tuy nổi tiếng nhưng không có tài, còn trong vai trò chính trị gia, ông có tài nhưng không phải lúc nào cũng nổi tiếng.
Ông được bầu làm thành viên Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ năm 1846 trong một nhiệm kỳ. Năm 1860, ông trở thành tổng thống thứ 16 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Sau lần bầu cử này, bảy bang phía Nam tách ra khỏi liên minh và thành lập nhà nước tự trị. Họ tự gọi mình là Liên minh miền Nam Hoa Kỳ và bầu Jefferson Davis lên làm tổng thống. Nước Mỹ bị chia hai.
Khi phe ly khai nổ phát súng khai chiến đầu tiên tại đồn Sumter vào ngày 12 tháng 4 năm 1861, cuộc Nội Chiến chính thức bắt đầu. Khi ấy có tổng cộng 11 bang gia nhập Liên minh miền Nam – tất cả đều là những bang muốn giữ lại chế độ nô lệ.
Tình trạng nô lệ là nguyên nhân gây ra cuộc nội chiến, và Abraham biết rõ rằng đất nước này không bao giờ có hòa bình nếu cứ duy trì một nửa tự do, một nửa nô lệ. Thế nên năm 1863, ông ký bản tuyên ngôn giải phóng nô lệ, trong đó tuyên bố tất cả nô lệ thuộc các bang miền Nam nổi dậy đều được trả tự do. Đối với ông, đó là hành động quan trọng nhất trong suốt nhiệm kỳ làm tổng thống của mình.
Ông còn là một nhà văn và nhà hùng biện tài năng. Bài diễn văn của ông tại thị trấn Gettysburg năm 1963 vẫn được xem là một trong những bài phát biểu vĩ đại nhất trong lịch sử.
Nếu không có sự sáng suốt và tài lãnh đạo sắt đá của ông trong suốt thời kỳ Nội Chiến, hẳn nước Mỹ vẫn còn chịu cảnh chia cắt đến ngày hôm nay. Ông là hiện thân của tinh thần tự do, dân chủ bất diệt và ông đã chứng minh cho cả thế giới thấy “chính phủ của dân, do dân và vì dân” sẽ mãi vĩnh hằng.
Ông tái đắc cử tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1864 nhưng không lâu sau, ông bị John Wilkes Booth, một nam diễn viên bị loạn trí, bắn chết vào ngày 14 tháng 4 năm 1865 – chỉ 5 ngày sau khi Đại tướng Lee tuyên bố đầu hàng tại thành phố Appomattox, bang Virginia, kết thúc cuộc Nội Chiến.
Ngày nay, Abraham vẫn được xem là một trong những vị tổng thống vĩ đại nhất. Dù ông đã qua đời hơn một thế kỷ, nhưng tài lãnh đạo và lòng quả cảm của ông vẫn mãi là tấm gương của biết bao nhiêu người trên thế giới.
“Một căn nhà bị chia làm đôi không thể nào đứng vững.”
__Abraham Lincoln (1809 – 1865)
[sach_dammouocdetruongthanh]
Leave A Comment